tác động kinh tế do COVID-19 sẽ gây ra hai trường hợp cho Bitcoin tại những sàn giao dịch tiền ảo uy tín nhất thế giới : Bitcoin như một công cụ giúp khắc phục lạm phát và lưu trữ trị giá, và tiềm năng Bitcoin có thể thay thế tiền pháp định được kiểm soát bởi những chính phủ.
FDR, Nixon và lạm phát
Chúng ta có FED (Cục Dự Trữ Liên Bang) như thế nào? Câu chuyện tính từ lúc năm 1913 với sự duyệt điều luật Dự Trữ Liên Bang. Điều luật này cho phép tạo ra FED, một nhà băng trung ương độc lập chuyên đảm nhận về các chính sách tiền tệ. FED được quyền kiểm soát nguồn cung tiền, và tỉ lệ lãi suất, cộng với nhiệm vụ hạn chế lạm phát và thất nghiệp. Trong nhiều thập kỉ sau đó, FED chẳng phải hoàn tất sứ mệnh.
Cởi bỏ tiêu chuẩn vàng
từ năm 1913- 1919, đồng USD đã có công đoạn lạm phát lên tới 20% mỗi năm. Ấy là hậu quả của việc Chính Phủ tiêu xài quá rộng rãi trong suốt Chiến Tranh toàn cầu thứ 1, và nguồn tài nguyên thì còn hạn chế, Vì thế, chi phí sản suất và giá sản phẩm ngày càng cải thiện cao. Trong suốt Thế Chiến Thứ 2, tỉ lệ lạm phát là 13% mỗi năm, dù Chính Phủ đưa ra đa dạng giảm phát nhằm kiểm soát lương thưởng và ngăn chặn lạm phát.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, đồ đô la Mỹ đã trải qua nhiều công đoạn giảm phát mạnh trong suốt cuộc suy thoái đầu những năm 20 và Đại Suy Thoái trong những năm 1930s. Các đợt giảm phát này đã giúp cân bằng lạm phát, dẫn tới tỉ lệ lạm phát chỉ 1% trong mỗi năm trong khoảng 1913 – 1960.
Một lí do khiến khiến Chính Phủ con đường đường chính chính sử dụng tiền khiến lạm phát xảy ra là do việc “thoát khỏi neo giá vàng”. Trước Đại Suy Thoái, chính phủ Hoa Kỳ buộc tiền phải được neo vào lượng vàng có trong quỹ. Điều đó cho phép một loạt những đàm phán to được hoàn tất mà không cần phải đàm đạo hàng tấn vàng. Trị giá của tiền giấy sẽ được bảo đảm bằng quỹ vàng từ chính phủ.
Tại thời điểm khởi đầu Đại Suy Thoái, lúc người gửi ko còn tin tưởng các thể chế nguồn vốn, họ đã giữ tiền của mình bằng vàng để bảo tồn sự ấm no. Vào năm 1933, FDR đã phê duyệt luật buộc nhà băng và người sử dụng đổi vàng để lấy tiền giấy, hoàn thành việc xoá bỏ quy chuẩn vàng.
Tiêu chuẩn vàng giúp Chính Phủ kiểm soát nợ, thâm hụt ngân sách và lạm phát. Từ khi đó, FED có thể in tiền bất cứ khi nào, mà ko cần phải neo tiền với bất kì tài sản thực nào.
Vàng và cú sốc từ tổng thống Nixon
Tổng thống Nixon đã khiến ảnh hưởng trong khoảng FDR vượt ra ngoài tầm đất nước năm 1971 lúc ông ta kết thúc hoàn toàn tỉ lệ quy đổi giữa đồng đô la Mỹ và vàng. Sau đó, những năm 1970 là những năm chứng kiến tỉ lệ lạm phát cao nhất ở Hoa Kì. Trong giống như các lần trước, khi lạm phát là do chiến tranh, giờ đây lạm phát là hậu quả của cú sốc kinh tế.
Vào năm 1973, một đạo luật về dầu được ban hành bởi OPEC chống lại Hoa Kỳ đã làm giá dầu tăng gấp 4 lần, làm tăng cường giá gas sử dụng, cải thiện giá tải hàng hoá cũng như chi phí cung cấp các sản phẩm can dự tới dầu lửa như nhựa. Kết quả là, giá cả của các cấp tăng cường cao, dẫn tới lạm phát 2 Con số.
khi giá cải thiện lên, nhu cầu hàng hoá và nhà cung cấp lại giảm, dẫn đến doanh thu các đơn vị cũng giảm theo. Đối mặt với nhu cầu giảm dần, mà giá cả thì cải thiện lên, các tổ chức đề nghị cắt giảm nhân viên. Thất nghiệp cải thiện lại làm giảm cầu, buộc doanh nghiệp phải sa thải nhân lực, và tạo ra một vòng tròn lẩn quất. Lạm phát cao cùng tỉ lệ thất nghiệp cao gọi là “stagflation”.
Để ứng phó với stagflation, FED đã tăng nguồn cung tiền, giảm lãi suất, Hi vọng cải thiện nhu cầu. Nhu cầu càng ngày càng tăng làm giảm tỉ lệ thất nghiệp nhưng làm cải thiện giá và giá cả sinh hoạt. Kết quả là người dân cần được trả lương cao hơn, làm tăng cường giá cả kinh doanh. Chi phí cần lao tăng cao khiến những công ty sa thải phổ quát hơn và tình huống thất nghiệp lại tăng lên, khiến nhu cầu giảm một lần nữa.
Xem thêm: các hình thức nạp tiền Huobi
Để đối phó điều này, FED tiếp túc bơm tiền và hạ lã suất để tăng cường cầu, bắt đầu lại cái vòng tròn lẩn quẩn đó, và rút cuộc dẫn đến việc lạm phát cao rõ rệt, cộng với tỉ lệ thất nghiệp ngày một tăng cường lên. Vào năm 1973, tỉ lệ lạm phát ở mức 8,8%, và cuối thập kỉ, tỉ lệ này đã tăng cường lên 14%. Những chính trị gia tập trung vào việc làm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sản xuất việc làm để kêu gọi phiếu bầu.
Paul Volcker được bổ dụng là chủ tịch của FED vào năm 1979, ông tập hợp vào việc đối phó lạm phát. Ông đã làm ngược lại chính sách tiền tệ, cải thiện lãi suất lên đến 20% và giảm cung tiền. Điều này Ban đầu làm giảm mạnh nhu cầu và tỉ lệ thất nghiệp, dến đến cuộc suy thoái năm 1981-1982. Tuy thế, lạm pháp đã được tránh được, và giá cả thì giảm xuống, tăng nhu cầu và cứu nền kinh tế khỏi stagflation.
Covid giúp chúng ta nhận ra…
tương tự như năm 1970, chúng ta đang trong một cú sốc kinh tế, và lí do cho lần này là đại dichj toàn cầu. Dãn cách xã hội và những biện pháp sức khoẻ khác do các nhà làm chính trị đã cản trở dòng người, hàng hoá và dịch vụ thế giới. Việc cung ứng và phân bổ hàng hoá đã dẫn tới cú sốc nguồn cung.
Kết quả là, các tổ chức lớn và nhỏ đã giảm doanh thu, và yêu cầu sa thải nhân viên. Trong suốt khoảng thời kì đấy, 33 triệu người Mỹ đã bị thất nghiệp, gần 20,5% nhóm lao động, cao nhất diễn ra từ năm 1934. Trong bối cảnh đó, chúng ta chưa từng thấy tính từ Đại Suy Thoái trong sắp 3 năm. Cách nhà đầu tư hăng hái gom tiền mặt,dẫn đến cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, doanh nghiệp, hàng hoá và thậm chí tiền mã hoá giảm giá. Chỉ số Dow Jones đã giảm hơn 30% từ đỉnh.
Để tăng cường những thiệt hại kinh tế, các nhân hàng đã cùng nhau giảm lãi suất, và nới lỏng định lượng (QE). QE buộc Chính Phủ phải tìm nợ dưới hình thức chứng khoán thế chấp và trái phiếu ngân khố, và in tiền để hỗ trợ thuế cho cá nhân và tập đoàn.
Lãi suất chỉ còn ở ngưỡng sấp sỉ 0%. Thập chí ở tất cả quốc gia tại Châu Âu và Châu Á, lãi suất âm còn được thí nghiệm, kích thích khách hàng sử dụng tiền, và rút khỏi những nhà băng thương mại. Nếu tiền nằm trong tài khoản ngân hàng, khách hàng sẽ phải trả một khoản phí duy trì để làm dương lãi suất, điều đấy buộc quý khách phải rút tiền ra khỏi ngân hàng và chi tiêu.
những lãnh đạo tại FED, ngân hàng Châu Âu và ngân hàng Nhật Bản, đã cộng tỏ bày rằng chúng ta đang ở trong một giai đoạn quan yếu trong lịch sử chính sách tiền tệ và tiền pháp định. Lãi suất giảm dần trong vòng 50 năm qua. Hiện nay, lạm phát đã thấp, lãi suất đã giảm dần, FED phải theo quy trình của ECB và BoJ bằng việc tạo lại suất âm, hoặc theo các nước của Volcker, và ra cải thiện lãi suất để cài đặt lại nền kinh tế.
các cỗ máy in tiền
Trong vòng Trước tiên của gói kích thích kinh tế, hơn hai,3 nghìn tỉ đô (khoảng 11% GDP của Hoa Kì) đã được in và bơm vào nền kinh tế qua gói CARES. Số tiền này tương trợ lợi ích cho phòng ban những người thất nghiệp, và chung cấp séc cho quý khách, hỗ trợ các hộ buôn bán vừa và nhỏ, những bệnh viện và chính phủ địa phương.
Số tiền này tới từ việc bán trái khoán ngân khố. Vậy người nào là quý khách nợ của chính phủ? Chính là FED, bên đã tuyên bố gói Nới Lỏng Định Lượng (QE) để giúp chi trả cho những hoạt động của kho bạc. Gói QE dùng để tậu trái khoán ngân khố và cổ phiếu thế chấp, nhưng lần này, FED đã làm theo ECB và BoJ bằng việc tìm lại nợ của đơn vị.
tuy vậy, Nhật Bản thì không còn xa lạ gì với QE. BoJ đã bắt đầu bơm tiền vào nền kinh tế từ đầu các năm 2000 để trống lại giảm phát. Ban đầu, nhà băng được chi tiền trong khoảng chính phủ để khuyến khích cho vay, và Vì vậy cải thiện sự tiêu dùng. Gói QE từ Nhật Bản chẳng phải dẫn tới việc lạm phát như mong muốn, có thể do hạn chế thị phần nợ công và nợ tư. Thời kì trôi đi, việc chính phủ phát hành tiền mới và đưa tiền trực tiếp vào việc thanh toán các gói khuyến khích tiêu dùng cho khác hàng thì có thể gây ra lạm phát phổ thông hơn là việc tìm trái phiếu ngân khố hay trái phiếu doanh nghiệp.
Xem thêm: hướng dẫn kinh doanh tiền ảo
thời cơ to to trong khoảng Bitcoin
In tiền và lãi suất trên khắp toàn cầu có thể khiến tiền mặt mất sức mua vì lạm phát tăng. Tăng cung thì giá sẽ giảm ví như cầu ko cải thiện với cùng một mức. So sánh với các tài sản lưu trữ trị giá khác như vàng, tiền mặt đã mất hơn 80% sức tậu chỉ trong thập kỉ mới đây.
Theo truyền thống, vàng giúp chống lại lạm phát, và qua những cuộc suy thoái kinh tế, nhà đầu cơ đổ sang vàng để lưu trữ giá trị. Ko giống tiền mặt, vàng có lượng cung hạn chế và độ thi thoảng cố định. Bitcoin cũng có các đặc điểm như vậy, tổng cung ngừng và độ thi thoảng tính từ lúc được tạo nên. Giống như vàng Bitcoin sẽ không bị mất giá như tiền mặt.
Ngoài ra, Bitcoin ngày một thảng hoặc sau đợt Halving thứ 3 vào tháng 5 năm 2020, một chức năng đã được lập trình sẵn trong giao thức của Bitcoin làm giảm tỉ lệ cung đến 50% mỗi 4 năm. Sự khan hi hữu không những là một chức năng cơ bản, và tỉ lệ cung cũng là một nguyên tố. Tỉ lệ lạm phát mỗi năm của Bitcoin cũng giảm chỉ còn 1,8%, thấp hơn lạm phát làng nhàng của toàn cầu, và thấp hơn tỉ lệ lạm phát của Vàng.
Việc ngày càng khan hiếm có thể được trình bày của mô phỏng stock-to-flow hay SF, tỉ lệ giữa lượng Bitcoin còn đó (stock) và lượng Bitcoin được tạo ra mỗi năm (flow). SF được sử dụng như một dụng cụ đơn thuần để đo lường trị giá các kim loại quý thi thoảng và đã được ứng dụng vào bitcoin bởi nhà phân tách Plan B. Vàng có SF to nhất là 65 và sau đợi Halving năm 2020, chỉ số SF của Bitcoin cũng đạt 58, nhìn chung cao hơn phổ quát so với những loại kim loại quý hiểm khác.
Đọc thêm các bài viết đánh giá sàn để biết được đâu là các cách mua bán tiền ảo tại Việt Nam và quốc tế.